Những Bài Thơ Nổi Tiếng

Những Bài Thơ Nổi Tiếng

Trung Quốc là một trong những cái nôi của thơ ca. Nhắc đến thơ Trung Quốc, người ta thường nghĩ ngay tới thơ Đường với hàng trăm các tác phẩm tiêu biểu. Vậy tại sao thơ Đường tại Trung Quốc lại nổi tiếng như vậy? Và thơ Đường có những bài thơ nào nổi bật? Cùng Hocbongcis,vn tìm hiểu ngay sau đây nhé!

Trung Quốc là một trong những cái nôi của thơ ca. Nhắc đến thơ Trung Quốc, người ta thường nghĩ ngay tới thơ Đường với hàng trăm các tác phẩm tiêu biểu. Vậy tại sao thơ Đường tại Trung Quốc lại nổi tiếng như vậy? Và thơ Đường có những bài thơ nào nổi bật? Cùng Hocbongcis,vn tìm hiểu ngay sau đây nhé!

Thơ Đường Trung Quốc và các giai đoạn phát triển

Nhà Đường (618 – 907) là một trong những triều đại huy hoàng nhất của lịch sử Trung Quốc. Triều Đường tiếp nối sau nhà Tuy và trước thời kỳ Ngũ Đại Thập Quốc.

Nhắc đến nhà Đường nhất định phải nhắc đến văn chương, thơ ca. Thời kỳ đó cả 3 tôn giáo cùng tồn tại là Nho giáo, Phật giáo và Đạo giáo. Cộng thêm loạn An Sử bùng nổ, khiến chính cảnh biệt ly, nhà tan cửa nát đã tạo nên vô số đề tài cho nền thơ ca. Ngoài ra thời Đường các vị vua cũng đều yêu thích thơ văn nên cũng thúc đẩy cho hoạt động tặng thơ tặng văn thời kỳ này vươn lên.

Bên cạnh đó, trong giai đoạn chuyển tiếp sớm ở thời nhà Tùy, Tùy Dạng Đế và Tùy Văn Đế chủ trương cải cách thơ ca. Bước tiến mới này đã đặt nền móng cho sự phát triển của thơ ca thời nhà Đường và cũng chính nhà Tùy là bước chuyển tiếp sang một giai đoạn mới của thơ ca Đường.

Từ đó, đây được coi là thời kì hoàng kim của thơ ca, biến Trung Quốc thành quốc đô của thơ ca.

Tĩnh Dạ Tư (Cảm nghĩ trong đêm thanh tĩnh)

静夜思 /jìng yè sī/: Tĩnh Dạ Tư (Cảm nghĩ trong đêm thanh tĩnh)

床前明月光,疑是地上霜. chuáng qián míng yuè guāng, yí shì dì shàng shuāng. 举头望明月,低头思故乡. jǔ tóu wàng míng yuè, dī tóu sī gù xiāng.

Sàng tiền minh nguyệt quang, Nghi thị địa thượng sương. Cử đầu vọng minh nguyệt, Đê đầu tư cố hương.

Đầu giường ánh trăng rọi Ngỡ mặt đất phủ sương. Ngẩng đầu nhìn trăng sáng Cúi đầu nhớ cố hương.

giai đoạn lịch sử cùng các nhà thơ nổi tiếng thời Đường Trung Quốc

Lý Bạch (701 – 762), tự là Thái Bạch, hiệu là Thanh Liên cư sĩ. Ông sinh ra tại Lũng Tây, Cam Túc. Có thể nói Lý Bạch là một trong những nhà thơ theo chủ nghĩa lãng mạn nổi tiếng nhất thời Thịnh Đường nói riêng và Trung Quốc nói chung.

Suốt cuộc đời, ông được tán dương là một thiên tài về thơ ca. Người đã mở ra một giai đoạn phát triển vượt bậc của thơ Đường. Từ khi còn trẻ, ông đã xa gia đình để đi du lịch, tìm đường lập công danh sự nghiệp riêng. Ông cùng người bạn Đỗ Phủ trở thành hai biểu tượng thơ văn lỗi lạc không chỉ trong phạm vi nhà Đường mà còn trong toàn bộ lịch sử Trung Hoa.

Do sự lỗi lạc của mình, ông được hậu bối tôn làm Thi Tiên, hay Thi Hiệp. Giới thi nhân lúc bấy giờ rất kính nể tài uống rượu ngắm trăng làm thơ của ông. Còn gọi ông là Tửu Tiên, hay Trích Tiên Nhân.

Đỗ Phủ (712 – 770), tự là Tử Mĩ, hiệu Thiếu Lăng dã lão, Đỗ Lăng dã khách hay Đỗ Lăng bổ y. Ông là người Tương Dương, cũng là một nhà thơ nổi bật thời kỳ Đường. Cùng với Lý Bạch, ông cũng được coi là một trong hai nhà thơ vĩ đại nhất trong lịch sử văn học Trung Quốc. Tài năng của ông tuyệt vời và đức độ cao thượng nên được các nhà phê bình Trung Quốc gọi là Thi Sử và Thi Thánh.

Cả cuộc đời mình, ông luôn muốn vì nước vì dân nhưng ông không thực hiện được điều này do loạn An Lộc Sơn năm 755. 15 năm cuộc đời ông là khoảng thời gian đầy biến động, có thời điểm ngắn ông làm quan nhưng vẫn sống trong đau khổ và bệnh tật. Có tin đồn ông mất trên một con thuyền nát ngoài xa.

Bạch Cư Dị (772 – 846), biểu tự Lạc Thiên, hiệu Hương Sơn cư sĩ, Tùy ngâm tiên sinh hay Quảng Đại giáo hóa chủ. Ông là người gốc Thái Nguyên, Sơn Tây, sau di cư tới huyện Vị Nam, Thiểm Tây. Ông là nhà thơ Trung Quốc nổi tiếng thời nhà Đường. Cũng là một trong những nhà thơ hàng đầu của lịch sử thơ ca Trung Quốc. Với một số người yêu thơ ca thì thơ của ông chỉ xếp sau Lý Bạch và Đỗ Phủ.

Thơ của ông có sức ảnh hưởng vô cùng lớn, không chỉ được tuyên truyền trong dân gian mà còn lan sang tận các nước ngoài.

Vọng Lư sơn bộc bố ( Xa ngắm thác núi Lư)

望庐山瀑布/ Wàng lúshān pùbù/:Vọng Lư sơn bộc bố ( Xa ngắm thác núi Lư)

日照香炉生紫烟,遥看瀑布挂前川. rì zhào xiāng lú shēng zǐ yān, yáo kàn pù bù guà qián chuān . 飞流直下三千尺,疑是银河落九天. fēi liú zhí xià sān qiān chǐ, yí shì yín hé luò jiǔ tiān .

Nhật chiếu Hương Lô sinh tử yên, Dao khan bộc bố quải tiền xuyên. Phi lưu trực há tam thiên xích, Nghi thị Ngân Hà lạc cửu thiên.

Nắng rọi Hương Lô khói tía bay Xa trông dòng thác trước sông này Nước bay thẳng tắp ba nghìn thước Tưởng dải ngân hà tuột khỏi mây.

Tại Hoàng Hạc Lâu tiễn Mạnh Hạo Nhiên đi Quảng Lăng

黄鹤楼送孟浩然之广陵 /huáng hè lóu sòng mèng hào rán zhī guǎng ling/: Tại Hoàng Hạc Lâu tiễn Mạnh Hạo Nhiên đi Quảng Lăng

故人西辞黄鹤楼, gù rén xī cí huáng hè lóu, 烟花三月下阳州. yān huā sān yuè xià yáng zhōu . 孤帆远影碧空尽, gū fān yuǎn yǐng bì kōng jìn, 惟见长江天际流. wéi jiàn cháng jiāng tiān jì liú .

Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng Cố nhân tây từ Hoàng Hạc lâu, Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu. Cô phàm viễn ảnh bích không tận, Duy kiến Trường Giang thiên tế lưu.

Dịch thơ (Bản dịch của Ngô Tất Tố):

Bạn từ lầu Hạc lên đường, Giữa mùa hoa khói, châu Dương xuôi dòng. Bóng buồm đã khuất bầu không, Trông theo chỉ thấy dòng sông bên trời.

锄禾日当午,汗滴禾下土. chú hé rì dāng wǔ, hàn dī hé xià tǔ. 谁知盘中餐,粒粒皆辛苦? shuí zhī pán zhōng cān , lì lì jiē xīn kǔ ?

Sừ hòa nhật đương ngọ, hãn trích hòa hạ thổ Thùy tri bàn trung xan, lạp lạp giai tân khổ

Cày đồng đang buổi ban trưa Mồ hôi thánh thót như mưa ruộng cày. Ai ơi, bưng bát cơm đầy Dẻo thơm một hạt, đắng cay muôn phần!

Bài ca dao là bản dịch bài thơ Mẫn nông 憫農 của Lý Thân đời Đường (Trung Quốc).

今夜鄜州月, jīn yè fū zhōu yuè, 闺中只独看. guī zhōng zhǐ dú kàn . 遥怜小儿女, yáo lián xiǎo ér nǚ, 未解忆长安. wèi jiě yì cháng ān . 香雾云鬟湿, xiāng wù yún huán shī, 清辉玉臂寒. qīng huī yù bì hán . 何时倚虚幌, hé shí yǐ xū huǎng, 双照泪痕干. shuāng zhào lèi hén gān .

Kim dạ Phu Châu nguyệt, Khuê trung chỉ độc khan. Dao liên tiểu nhi nữ, Vị giải ức Trường An. Hương vụ vân hoàn thấp, Thanh huy ngọc tý hàn. Hà thì ỷ hư hoảng, Song chiếu lệ ngân can?

Châu Phu này lúc trăng soi, Buồng the đêm vắng riêng coi một mình. Đoái thương thơ dại đầu xanh, Tràng An chưa biết mang tình nhớ nhau. Sương sa thơm ướt mái đầu, Cánh tay ngọc trắng lạnh màu sáng trong. Bao giờ tựa bức màn không, Gương soi chung bóng lệ dòng dòng khô. (Tản Đà)

⇒ Xem thêm bài viết: 8 Bài thơ tiếng Trung Cực hay bằng Hán Việt chủ đề Tình yêu

Chúc các bạn học tiếng Trung thật tốt. Cám ơn các bạn đã ghé thăm website của chúng tôi.

Nguồn: chinese.com.vn Bản quyền thuộc về: Trung tâm tiếng Trung Chinese Vui lòng không copy khi chưa được sự đồng ý của tác giả.

Hồi hương ngẫu thư (Ngẫu nhiên viết nhan buổi mới về quê)

回乡偶书/ Huí xiāng ǒu shū/: Hồi hương ngẫu thư (Ngẫu nhiên viết nhan buổi mới về quê)

少 小 离 家 老 大 回, Shào xiǎo lí jiā lǎo dà huí 乡 音 无 改 鬓 毛 衰. Xiāng yīn wú gǎi bìn máo shuāi 儿 童 相 见 不 相 识, Ér tóng xiāng jiàn bù xiāng shí 笑 问 客 从 何 处 来. Xiào wèn kè cóng hé chù lái.

Thiếu tiểu li gia lão đại hồi Hương âm vô cải mấn mao tồi Nhi đồng tương kiến bất tương thức Tiếu Vấn Khách Tòng Hà Xử Lai.

Khi đi trẻ, lúc về già Giọng quê không đổi, tóc đà khác bao Trẻ con nhìn lạ không chào, Hỏi rằng khách ở chốn nào tới đây.

枫桥夜泊/ Fēng qiáo yè bó/: Phong Kiều Dạ Bạc

月落乌啼霜满天 yuè luò wū tí shuāng mǎn tiān 江枫鱼火对愁眠 jiāng fēng yú huǒ duì chóu mián 姑苏城外寒山寺 gū sū chéng wài hán shān sì 夜半钟声到客船 yè bàn zhōng shēng dào kè chuán Dịch âm Hán Việt: Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên Giang phong ngư hỏa đối sầu miên Cô Tô thành ngoại Hàn San tự Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền

Trăng tà chiếc quạ kêu sương Lửa chài cây bến sầu vương giấc hồ Thuyền ai đậu bến Cô Tô Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn San (Bản dịch tiếng Việt của Nguyễn Hàm Ninh)

黄鹤楼/ Huáng hè lóu/: Hoàng Hạc Lâu

昔人已乘黄鹤去, xī rén yǐ chéng huáng hè qù, 此地空余黄鹤楼. cǐ dì kōng yú huáng hè lóu . 黄鹤一去不复返, huáng hè yī qù bù fù fǎn, 白云千载空悠悠. bái yún qiān zài kōng yōu yōu . 晴川历历汉阳树, qíng chuān lì lì hàn yáng shù, 芳草萋萋鹦鹉洲. fāng cǎo qī qī yīng wǔ zhōu . 日暮乡关何处是, rì mù xiāng guān hé chǔ shì, 烟波江上使人愁 yān bō jiāng shàng shǐ rén chóu

Tích nhân dĩ thừa hoàng hạc khứ, Thử địa không dư Hoàng Hạc Lâu. Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản, Bạch vân thiên tải không du du. Tình xuyên lịch lịch Hán Dương thụ, Phương thảo thê thê Anh Vũ châu. Nhật mộ hương quan hà xứ thị, Yên ba giang thượng sử nhân sầu.

Hạc vàng ai cưỡi đi đâu? Mà đây Hoàng Hạc riêng lầu còn trơ Hạc vàng đi mất từ xưa Nghìn năm mây trắng bây giờ còn bay Hán Dương sông tạnh cây bày Bãi xa Anh Vũ xanh dày cỏ non Quê hương khuất bóng hoàng hôn Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai (Bản dịch của Tản Đà)